Theo thông báo từ gia đình hồi cuối tuần qua, cựu Tổng Thống Jimmy Carter đã được đưa về nhà để chờ ngày ra đi thanh thản. Ở tuổi 98, ông đã sống quá đủ cho một cuộc đời với những di sản mà nước Mỹ sẽ còn nhớ đến ông, không chỉ trong cương vị tổng thống đời thứ 39 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ mà một tinh thần bác ái qua các hoạt động thiện nguyện miệt mài của ông trong bốn thập niên vừa qua, kể từ sau khi ông mãn nhiệm kỳ. Cách riêng với người Việt tị nạn, ông là một ân nhân to lớn không thể không nhắc đến.
Năm 1979, Tổng Thống Jimmy Cater đứng trước một quyết định khó khăn trước vấn đề thuyền nhân Việt Nam đang ồ ạt đổ ra biển khơi hay đang tạm dung trong các trại tị nạn Ðông Nam Á với hy vọng được Hoa Kỳ cùng các nước phương Tây chấp nhận cho định cư. Thăm dò trên CBS và The New York Times cho thấy gần hai phần ba công chúng Mỹ, khoảng 62% cùng một số nhà lập pháp Hoa Kỳ không muốn nhận người tị nạn Việt Nam vào Mỹ.
Bất kể điều này, Tổng Thống Carter đã đi một bước xa hơn những gì người khác dự liệu khi tăng số người tị nạn Ðông Dương từ 7,000 người được nhận vào Mỹ mỗi tháng lên gấp đôi là 14,000 người, rồi tiếp tục gia tăng về sau.
Tại sao ông đã đưa ra quyết định này?
Theo như bài báo “Tổng Thống vận động cho thuyền nhân Châu Á” (President Makes Appeal for Asian Boat People) của ký giả Bill Peterson đăng trên tờ Washington Post vào ngày 23 tháng 8 năm 1979, ông tường thuật rằng, đứng trên một bờ dốc thoai thoải phía trên sông Mississippi, từng là con đường chính cho những người nhập cư di chuyển về phía Bắc và phía Tây, Tổng thống Carter đã đưa ra một lời kêu gọi đầy cảm xúc đối với thuyền nhân Ðông Nam Á. Ông phát biểu trước hơn 2,000 cư dân tại đây rằng, “Cho tôi nhắc với quý vị rằng Hoa Kỳ là một quốc gia của những người di dân. Chúng ta là một quốc gia của những người tị nạn. Những người tị nạn Ðông Nam Á từng là đồng minh của chúng ta trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Họ đang chạy trốn khỏi một đất nước đã tước đi các quyền căn bản của họ. Họ tin vào giá trị, khả năng của mỗi người cùng sự tự do cá nhân. Về mặt tâm thức, họ gần với chúng ta hơn là một chế độ cộng sản”. Ông đã trả lời như trên sau khi một sinh viên đặt câu hỏi rằng, liệu người tị nạn có lấy mất đi công việc của người dân Mỹ.
Nguồn Wikimedia Commons
Ông tiếp rằng, “Tôi tin rằng cứ 1,000 người Mỹ có thể giúp cho một người tị nạn đang tìm kiếm tự do chỉ trong một vài tuần, đặc biệt là khi những người này đã chứng tỏ rằng họ mong muốn học ngôn ngữ của chúng ta. Họ quyết tâm đứng bằng đôi chân mình. Vì vậy, tôi hy vọng rằng tất cả người dân Mỹ sẽ nhận ra rằng, gia đình của quý vị đã đến quốc gia này từ nhiều năm trước để tìm kiếm chính xác những điều mà những người tị nạn Việt Nam đang tìm kiếm hiện nay.”
Với suy nghĩ gởi đến người dân Mỹ như trên, Tổng thống Carter đã ra lệnh cho các tàu Mỹ đón những thuyền nhân tị nạn chạy trốn khỏi Ðông Dương và sẽ cho phép những người tị nạn tái định cư tại Hoa Kỳ nếu họ mong muốn, theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thông báo vào thời gian này. Ông vận động các nhà lập pháp để gia tăng số người tị nạn Ðông dương, đa phần là người tị nạn Việt Nam được định cư tại Mỹ. Ðạo luật Refugee Act of 1980 do Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy đề ra đã cho phép gia tăng số người tị nạn Ðông Dương được nhận vào Mỹ và giúp đỡ họ tái thiết cuộc sống mới tại Mỹ theo sau chính sách của Tổng Thống Carter.
Không dừng tại đây, Tổng Thống Carter đã gởi Phó TT Walter Mondale sang Geneva, Thụy Sĩ để họp bàn cùng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) cùng các quốc gia phương Tây trong việc giúp đỡ người tị nạn Việt Nam. Chính từ các hội nghị này, Cao Ủy Tị Nạn đã thay mặt Hoa Kỳ thương lượng với Hà Nội để bắt đầu chương trình tái định cư ODP cùng các chương trình HO, con lai về sau này. Tháng 1 năm 1980, văn phòng ODP được thiết lập tại Bangkok, Thái Lan để bắt đầu tiếp nhận hồ sơ ODP và các nhân viên văn phòng cùng nhân viên lãnh sự quán, sở Di Trú Hoa Kỳ đã bay sang Sài Gòn mỗi tháng để phỏng vấn những người nộp hồ sơ, cho đến khi văn phòng ODP chính thức được mở ra tại Sài Gòn về sau này.
Như lời Tổng Thống Carter phát biểu, chính sách di dân và người tị nạn với người tị nạn Việt Nam bởi ông xem người Việt là đồng minh của Hoa Kỳ, cũng như một phần như nhiều chính khách hay tổng thống Mỹ khác, ông cũng thuộc hậu duệ của một giòng họ đến từ Anh hàng đôi trăm năm trước.
Sinh năm 1924 tại Georgia, có cha từng phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ vào thời Ðệ Nhất Thế Chiến rồi trở thành một chính khách, Tổng Thống Jimmy Carter cũng đi theo con đường binh ngũ và sự nghiệp như cha mình. Ông được huấn luyện tại Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ và phục vụ tại các hạm đội Ðại Tây Dương, Thái Bình Dương sau khi tốt nghiệp. Năm 1963, ông ra tranh cử và đắc cử vào Thượng viện Georgia, mở màn cho cuộc đời chính trị của ông. Ðến năm 1971, ông đắc cử Thống Ðốc Georgia và năm 1976, ông chiến thắng khít khao trước Tổng thống đương nhiệm thuộc đảng Cộng Hòa lúc bấy giờ là Gerald Ford để trở thành tổng thống thuộc đảng Dân Chủ một nhiệm kỳ, từ năm 1977 đến 1981. Ông thua cử Tổng thống Ronald Reagan khi ra tái tranh cử.
Các đánh giá về nhiệm kỳ tổng thống của ông được giới sử học và khoa học chính trị xem là trung bình nhưng hầu hết đều ghi nhận và đánh giá rất cao những đóng góp, các hoạt động cổ suý hoà bình, nhân quyền và thiện nguyện của ông từ sau nhiệm kỳ tổng thống trong vòng 40 năm qua, kể từ năm 1982. Các hoạt động cổ súy và thúc đẩy nhân quyền thế giới của ông qua trung tâm Carter Center đã mang lại cho ông giải Nobel Hoà Bình vào năm 2002.
Ông cùng vợ, là phu nhân Eleanor Rosalynn Carter là những nhân vật chủ chốt trong tổ chức thiện nguyện uy tín Habitat for Humanity, một tổ chức từ thiện có hành dinh tại Georgia, hoạt động tại 70 quốc gia chuyên giúp xây nhà cho người nghèo khắp thế giới.
Tin tức về những giờ phút cuối cùng của cựu Tổng Thống Jimmy Carter đã làm xúc động giới chính khách, những người nổi tiếng và người dân Mỹ, rất nhiều người đã bày tỏ lòng quý mến và tri ân về các đóng góp cùng hoạt động của ông. Cuối tuần qua, Bộ Hải Quân Hoa Kỳ cũng ra thông báo đổi tên cho một tòa building của Học Viện trở thành Carter Hall nhằm vinh danh ông.
Với cộng đồng gốc Việt tại Hoa Kỳ nói riêng, sự hiện diện của phần lớn người Việt trên quốc gia này hiện nay có thể xem là trực tiếp hay gián tiếp đến từ chính sách cưu mang và bác ái của cựu Tổng Thống Jimmy Carter vậy. Xin tri ân và tiễn biệt ông ra đi bình an!
ĐYT
Ghi danh Newsletter
Ghi danh newsletter để chúng tôi gởi bản tin đến các bạn. Xin cảm ơn!
Tiếp thị liên kết (Affiliate Disclaimer): Chúng tôi có thể nhận được hoa hồng cho bất kỳ sản phẩm/dịch vụ là liên kết tiếp thị mà bạn thực hiện. Điều này sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho bạn. Xem thêm Miễn trừ trách nhiệm.
– The Little Match Girl (tác giả Hans Christian Andersen): Cô Bé Bán Diêm, là một câu chuyện cảm động kể về một cô bé nghèo, bán diêm trong đêm giao thừa. Cô bé, không có đủ tiền để về nhà, ngồi trong góc phố lạnh giá và cố gắng giữ ấm bằng cách thắp từng que diêm. Mỗi lần thắp một que, cô bé lại nhìn thấy những hình ảnh huyền ảo đầy ấm áp và hạnh phúc, nhưng cuối cùng, cô bé chết trong lạnh lẽo và đói khát, một kết cục không giống có kết thúc đẹp như những câu chuyện cổ tích khác. Câu chuyện phê phán sự vô cảm của xã hội đối với những người nghèo khổ, đồng thời kêu gọi lòng trắc ẩn và sự chia sẻ. Dù kết thúc bi thảm, câu chuyện vẫn mang một thông điệp về niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.